Đi lễ chùa là một trong những truyền thống gắn liền với tín ngưỡng tâm linh sâu sắc của người Việt. Từ hồi xa xưa, mỗi dịp năm hết Tết đến, cổ nhân sau khi được mùa bội thu thì sẽ tiến hành nghi lễ thờ phụng và cảm tạ Thần linh, cầu nguyện cho một năm mới khởi sắc hơn, ngũ cốc dồi dào, hưng vượng.
Người xưa đi lễ chùa đầu năm là để thể hiện lòng kính ngưỡng đối với Phật, đều lĩnh hội trong tâm rằng điều Phật dạy con người là tu nhân tích đức, điều Phật ban cho con người không phải là tiền bạc, danh lợi, của cải hay sức khỏe, mà là trí huệ và giác ngộ tâm linh.
Người thường cũng nhân dịp lên chùa lễ Phật mà ăn năn, hối cải cho những tội lỗi của mình, và cầu xin có cơ hội được hoàn trả sai trái, hành thiện giúp đời, tích đức hành thiện. Người mộ Đạo đến cầu chân lý, một lòng mong được đắc Đạo.
Thời nay, người ta bảo nhau lên chùa cầu tài, cầu danh thì phải đến đền này; xin con, xin của, xin lộc, tiêu tai giải nạn thì phải đến chùa nọ, phủ kia. Rằng ngôi đền này linh lắm, ngôi chùa kia thiêng lắm, xin gì được nấy, cầu gì là đắc cái đó. Thế là họ nườm nượp kéo nhau đi, xì xụp khấn vái với đủ lễ vật to nhỏ. Ngày nay người đến lễ Phật có mấy ai sám hối ăn năn? Lại càng ít người có cái tâm cầu Đạo, mong muốn tu luyện để thoát thế tục?
Liệu rằng Thánh Thần còn ở đền chùa nữa không, khi mà ở những nơi như thế lâu nay chỉ là cảnh chen lấn, cảnh mua Thần bán Thánh, cảnh lừa nhau để kiếm chác, “hối lộ” cả Thánh Thần.
Lễ Phật, bái Phật không phải là hình thức
Đối với nhiều người, việc đưa tay lấy ba nén hương và vái ba vái trước tượng Phật tựa như thói quen mà không hiểu ý nghĩa chân chính đằng sau của hành động này.
Tôn chỉ pháp môn tu của Đức Phật Thích Ca Mâu Niđó là: Giới, Định, Huệ. Theo kinh Phật giáo thì “Giới, Định, Huệ” là phương pháp “phá mê khai ngộ” và cũng là một loại quan hệ nhân quả. Người ta dù có xuất gia hay không, khi đến với Phật thì trước hết phải Giới. Giới tức là phải tự ước thúc mình đoan chính từ suy nghĩ đến hành động. Khi đã Giới được rồi, thì mới có Định. Tức là tâm trí trầm tĩnh, không suy nghĩ mờ tối, toan tính này khác, tâm thoát khỏi những chấp trước thế tục. Tâm có tĩnh thì Huệ mới sinh, trí mới sáng suốt, mới làm chủ được mình trước mê hoặc cám dỗ, mới ít phạm phải sai lầm.
Chúng ta thắp “ba nén hương” trước tượng Phật là có ý nghĩa tương ứng với “Giới, Định, Huệ”. Nén hương thứ nhất được gọi là “giới hương”, tức là trước mặt tượng Phật biểu đạt buông bỏ dục vọng, suy nghĩ sai trái, không đứng đắn. Nén hương thứ hai được gọi là “định hương” là có ý hy vọng đối với bất kỳ sự việc nào xảy ra thì bản thân cũng có thể nhẫn nại, bình tĩnh mà xử sự. Nén hương thứ ba được gọi là “huệ hương” (hay “tuệ hương”) là có ý khẩn cầu bản thân có được trí tuệ, khai ngộ mà gặp được Phật tâm.
Vậy vì sao phải vái ba vái? Vái thứ nhất là thể hiện cho tâm lễ kính Phật, kính Thần. Vái thứ hai là thể hiện nguyện vọng mong muốn được giác ngộ, nguyện một lòng hướng Phật. Vái thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật.
Như vậy có thể thấy rằng, thắp hương và bái Phật không phải chỉ là hành động theo thói quen mà đằng sau đó cón có một ý nghĩa vô cùng sâu xa, chính là thể hiện cái tâm của con người. Cho nên, người xưa có câu “không thắp hương không bái lạy mà vẫn được phúc báo” chính là có ý nói rằng cái tâm của con người mới là yếu tố quan trọng nhất và được Thần linh nhìn thấy rõ.
Nhiều người xem việc ăn chay nghĩa là tu Phật. Kỳ thực, họ ăn chay niệm Phật, ngày ngày gõ mõ tụng kinh, nhưng trong lòng là để cầu phúc báo chứ không phải chân chính tu hành, thậm chí miệng đọc kinh Phật nhưng trong tâm đầy oán giận, dục vọng, sân si, tà niệm thì bái lạy Phật cũng bằng không. Họ bố thí, nhưng là để cầu được tích đức chứ không phải vì lòng thương xót chúng sinh.
Có người quy y, nhưng lại không thật tâm tu hành, trong lòng vẫn chất chứa đầy suy nghĩ nhỏ nhen và toan tính hơn thua với đời. Có người vào chùa thì thành kính lễ bái xì xụp nhưng ra khỏi cửa liền lại tranh đấu với người khác, không việc xấu gì không dám làm, vì vậy nhân quả và nghiệp chướng cũng như người thường mà thôi.
Nếu không thực hiện theo lời Phật, bỏ các tâm chấp trước vào hư danh, tài lợi, sắc tình, dục vọng, thì dẫu lễ bái ăn chay hình thức cũng không phải là Phật tử chân chính. Phật vô xứ bất tại, trên đầu ba thước có Thần linh, trong tâm chúng ta nghĩ gì thì các Ngài đều biết rõ.
Sống có đức thì ở đâu Thần Phật cũng biết, bởi Thần Phật chỉ nhìn nhân tâm
Cổ nhân ngày xưa có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”.
Lòng từ bi chỉ thực sự có ở ngay trong chính đời sống thường nhật của con người. Khi ai đó giúp đỡ một người không may mắn, gặp hoạn nạn thì lòng người đó có Phật. Bởi thế, ngôi chùa hay ngôi đền thiêng nhất là ở chính lòng người.
Liệu có mấy ai đến chùa với một nén nhang trong sâu thẳm lòng mình để nói với Thánh Thần rằng, lòng họ vẫn còn những u tối, còn những tham lam, còn nhiều ghen ghét, oán hận sân si,… xin Thánh Thần ban cho họ ánh sáng của trí tuệ và lòng từ bi để xua đi những điều tội lỗi kia trong lòng.
Thánh Thần vẫn dõi theo con người dưới thế gian từng giây từng phút, đã gửi thông điệp từng ngày cho con người để cảnh báo về tai họa sẽ ập xuống thế gian bởi chính con người.
Thông điệp đó hiện ra trong thiên tai dịch họa, hiện ra trong sự trống rỗng tâm hồn của con người.
Ngôi đền hay ngôi chùa thiêng nhất chính là ngôi đền, ngôi chùa dựng trong “nội tâm” của con người. Vậy mà nhiều người đã bỏ quên những ngôi đền, ngôi chùa thiêng nhất ấy.
Người như thế nào mới được Thần Phật phù hộ độ trì?
Theo kinh điển nhà Phật, Phật không cần chút vật chất gì ở con người, mà vì sự từ bi, chư Phật muốn giang tay cứu độ con người ra khỏi bể khổ của lục đạo luân hồi. Sinh lão bệnh tử, mọi sự việc ở cõi người vốn là chiểu theo luật nhân quả; ai làm điều ác sẽ kết ác duyên; ai làm điều thiện sẽ kết thiện duyên, hết thảy đều là “nhân quả báo ứng”.
Phật chỉ có thể giúp những người kính Phật hướng tâm tích đức tu thiện, khuyên con người từ bỏ ham muốn vật chất, từ bỏ “tham sân si” để đạt được tâm thanh tịnh, tiến đến cảnh giới giác ngộ, chứ không thể ban phát tài lộc, sự nghiệp, công danh, hay giúp con người tiêu tai giải nạn, có một cuộc sống giàu sang, nhàn hạ.
Trong mỗi người đều có Phật tính và ma tính, do đó theo lời dạy của Phật tu bỏ ma tính, bỏ các dục vọng và chấp trước về danh lợi tình, thì Phật tính khi đó sẽ xuất hiện. Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ ra: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, tức là nhằm thẳng vào cái tâm mà tu, tu bỏ hết ma tính, để Phật tính xuất lai. Tu Phật không phải hướng ngoại mà cầu, mà là hướng vào tìm ở trong chính bản thân mình, tìm ra những thiếu sót, sai lầm của bản thân, khơi dậy thiện niệm của chính mình để Phật tính, bản tính tiên thiên vốn sẵn có trong con người được khởi phát. Vậy nên Phật gia vẫn thường giảng phải hướng tâm mà tu, hướng nội mà cầu.
Con người là do Thần Phật tạo ra, nên đã mang trong mình Phật tính, chỉ là trong dòng chảy tha hóa, đã bị danh lợi tình và những vật chất hữu hình trước mắt phủ kín nhân tâm. Nay nếu ta thức tỉnh, “Phật tính nhất xuất, chấn động mười phương thế giới”. Quay về với thiện niệm, buông bỏ hết tâm truy cầu dục vọng, tìm về với bản tính nguyên sơ là “Chân Thiện Nhẫn”, để Phật tính trong tâm khởi phát, thì mới có thể nhận thấy phúc lành của Phật nơi tâm mình.
Nguồn: Epochtimestv
Lan Hòa biên tập